Tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng có ý nghĩa lớn khi quyết định số tiền mà người vi phạm giao thông phải chịu khi mắc lỗi. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết đến những tình tiết này.
Tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng có ý nghĩa gì?
Một trong những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 là:
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng có ý nghĩa quan trọng trong việc cá thể hóa, phân hóa mức độ trách nhiệm hành chính.
Việc xử phạt vi phạm hành chính ngoài mục đích trừng trị người vi phạm còn hướng đến mục tiêu giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cho họ và thể hiện tính nhân văn của pháp luật. Vì thế, Luật đề ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính.
Cũng tương tự như vậy, các tình tiết tăng nặng đặt ra nếu người vi phạm không có tinh thần hợp tác, sửa chữa, khắc phục hậu quả…
Trong xử phạt vi phạm hành chính, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng không có ý nghĩa trong việc xác định hình thức xử phạt. Nếu hành vi vi phạm thuộc trường hợp bị xử phạt tương ứng với khung phạt nào thì người có thẩm quyền xử phạt bắt buộc phải áp dụng hình thức xử phạt đã được quy định tại khung đó. Tuy nhiên, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ lại có ý nghĩa quyết định trong việc xác định mức phạt tiền.
Tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng khi xử phạt vi phạm hành chính về giao thông (Ảnh minh họa)
Tình tiết giảm nhẹ khi xử phạt vi phạm hành chính về giao thông
Những tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ (Điều 9 Luật Xử lý vi phạm hành chính):
– Người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
– Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra; vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Vi phạm hành chính do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;
– Người vi phạm hành chính là phụ nữ mang thai, người già yếu, người có bệnh hoặc khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Vi phạm hành chính vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
– Vi phạm hành chính do trình độ lạc hậu.
Tình tiết tăng nặng khi xử phạt vi phạm hành chính về giao thông
Những tình tiết sau đây là tình tiết tăng nặng (Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012):
– Vi phạm hành chính có tổ chức;
– Vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm;
– Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
– Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm hành chính;
– Lăng mạ, phỉ báng người đang thi hành công vụ; vi phạm hành chính có tính chất côn đồ;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm hành chính;
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm hành chính;
– Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
– Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
– Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính;
– Vi phạm hành chính có quy mô lớn, số lượng hoặc trị giá hàng hóa lớn;
– Vi phạm hành chính đối với nhiều người, trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai.
Những tình tiết quy định trên nếu đã được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
>> Phạm tội khi say rượu là tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng?