Khoản 2 Điều 4 Nghị định này quy định:
Trường hợp công dân Việt Nam đã được cấp số định danh cá nhân và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu về đăng ký đầu tư, đăng ký doanh nghiệp được kết nối, vận hành thì được sử dụng số định danh cá nhân thay thế cho các giấy tờ liên quan đến nhân thân (bản sao Giấy chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân, Hộ chiếu và các giấy tờ chứng thực cá nhân khác) khi thực hiện thủ tục liên quan đến lĩnh vực nhà ở, kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật về nhà ở, pháp luật về kinh doanh bất động sản.
Như vậy, sắp tới khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đi vào vận hành, có kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan liên quan, trường hợp công dân đã làm Căn cước công dân (có mã định danh cá nhân) thì có thể thực hiện các giao dịch liên quan đến lĩnh vực nhà ở và kinh doanh bất động sản bằng mã số này mà không cần sử dụng bản sao Chứng minh nhân dân (CMND), Căn cước công dân (CCCD) hay hộ chiếu…
Không cần bản sao CMND/CCCD vẫn làm được thủ tục về nhà ở (Ảnh minh họa)
Theo Điều 12, Điều 19 Luật Căn cước công dân, số định danh cá nhân được xác lập từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư dùng để kết nối, cập nhật, chia sẻ, khai thác thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Số định danh cá nhân do Bộ Công an thống nhất quản lý trên toàn quốc và cấp cho mỗi công dân Việt Nam, không lặp lại ở người khác.
Số thẻ Căn cước công dân là số định danh cá nhân. |